Văn hóa

Lễ Thất Tịch là gì? Ý nghĩa ngày lễ Thất Tịch?

14:56 - 07/08/2019
Lễ Thất Tịch – mùa tình nhân phương Đông. Lễ Thất Tịch vào mồng 7 tháng 7 âm lịch hằng năm, gắn liền với sự tích Ngưu Lang Chức Nữ hay còn gọi là ngày ông Ngâu bà Ngâu.

Ở một số nước Đông Á như Việt Nam và Trung Quốc thì ngày 7 tháng 7 Âm lịch được coi là ngày lễ Thất tịch, ngày ông Ngâu bà Ngâu hay ngày Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau.

Lễ Thất Tịch là gì?

Lễ Thất Tịch hay còn gọi mùa tình nhân phương Đông. Lễ Thất Tịch ngắn liền sự tích Ngưu Lang Chức Nữ.

Sự tích Ngưu Lang – Chức Nữ: Tương truyền rằng, ngày xửa ngày xưa, có một anh chàng chăn bò tên là Ngưu Lang (có nghĩa là chàng trai chăn bò). Ngưu Lang mồ côi cha mẹ từ nhỏ, chàng sống với anh trai, mặc dù rất trung thực, tử tế và chăm chỉ làm việc nhưng sau Ngưu Lang vẫn bị chị dâu hắt hủi đuổi ra khỏi nhà.

Ngưu Lang sống một mình trên đồi cùng với một chú bò. Một ngày nọ, Ngưu Lang dắt bò ra đồng. Khi băng qua một hồ nước gần đó, chàng bất ngờ trông thấy bảy nàng tiên đang tắm và nô đùa trong hồ. Cả bảy nàng tiên đều xinh đẹp nhưng Ngưu Lang không thể rời mắt khỏi nàng tiên trẻ tuổi nhất.

Đột nhiên, Ngưu Lang nghe thấy chú bò nói với mình: “Cô ấy là con gái út trong bảy người con của Ngọc Hoàng, tên nàng là Chức Nữ. Nếu anh lấy xiêm y của nàng, nàng sẽ không thể trở về và sẽ chung sống với anh.” Ngưu Lang thấy vậy liền làm theo lời chú bò và lén giấu xiêm y của nàng tiên nữ Chức Nữ đi.

Khi các nàng tiên chuẩn bị bay về trời thì Chức Nữ tìm mãi mà vẫn không thấy xiêm y của mình. Sợ trễ giờ quay về Thiên Thượng nên các chị gái của nàng đành buồn bã để nàng ở lại. Chức Nữ một mình tìm kiếm, nàng cảm thấy vô vọng rồi bật khóc.

Lễ Thất Tịch gắn liền với sự tích Ngưu Lang Chức Nữ 

Ngưu Lang cảm thấy hối hận vì đã khiến Chức Nữ phải khóc nên chàng đã bước ra khỏi lùm cây và trả lại quần áo cho nàng. Ngưu Lang cũng thành thật thú nhận là mình bị choáng ngợp trước vẻ đẹp của nàng và xin cưới nàng làm vợ.

Chức Nữ cảm thấy Ngưu Lang là một chàng trai tốt bụng, dễ thương, chân thành và thiện tâm nên nàng đã đồng ý ở lại cùng Ngưu Lang, cũng vì nàng chẳng thể quay lại Thiên Thượng được nữa. Ngưu Lang và Chức Nữ sống hạnh phúc bên nhau, ngày ngày Ngưu Lang chăn bò và làm ruộng, còn Chức Nữ ở nhà thêu thùa may vá.

Chẳng bao lâu sau, họ sinh được hai đứa bé đáng yêu, một trai một gái. Cuộc sống của gia đình bé nhỏ cứ thế bình yên trôi qua. Thấm thoắt đã vài năm trôi qua nhưng ở trên Thiên Thượng chỉ là một quãng thời gian rất ngắn.

Ngọc Hoàng và Vương Mẫu đã phát hiện ra cô con gái út mất tích. Vương Mẫu rất giận dữ khi biết rằng Chức Nữ đã vi phạm luật thiên đình, ở lại nhân gian và cưới một người thường. Bà đã sai thiên binh xuống mang Chức Nữ trở về.

Chú bò của Ngưu Lang đã biết được điều này và nói với Ngưu Lang về chuyện sắp xảy ra, nó cũng không quên dặn Ngưu Lang lấy da của nó choàng qua người và hai con cũng có thể bay lên trời.

Nói xong, chú bò cũng qua đời. Dù đau lòng nhưng Ngưu Lang vẫn nghe theo lời khuyên của chú bò, chàng lột da nó và mai táng xác bên gốc cây gần nhà. Khi Ngưu Lang vừa về đến nhà, bầu trời đột nhiên xám xịt và gió bắt đầu gào thét. Thiên binh xuất hiện, xông vào nhà và bắt Chức Nữ đi.

Chức Nữ biết mình không thể thoát được, nàng ngoái đầu nhìn chồng con mà đẫm nước mắt nói lời từ biệt. Nhớ đến lời khuyên của chú bò, Ngưu Lang nhanh chóng khoác da bò, đặt hai đứa con vào hai cái thúng rồi gánh lên vai và chạy theo Chức Nữ.

Chàng cố gắng chạy thật nhanh, thật nhanh nhưng khi tới gần, đúng lúc anh định vươn tay nắm lấy vợ mình thì Vương Mẫu đã rút trâm cài đầu và vạch nên một đường ngăn cách. Ngay lập tức, một dòng sông lớn được tạo ra và chia cắt hai người.

Dòng sông ấy sau này được gọi là Dải Ngân Hà. Từ đó về sau, Ngưu Lang Chức Nữ đã bị chia ly nơi đôi bờ sông. Chức Nữ ở phía bên này sông, còn Ngưu Lang và hai người con đứng ở bên kia sông. Ngày qua ngày, nước mắt tuôn rơi, họ nhìn mãi về phía bên kia sông, nơi ấy có người mà mình thương yêu.

Vương Mẫu cuối cùng đã cảm động trước tấm lòng thủy chung ấy, vì thế bà đã đồng ý cho họ được gặp nhau mỗi năm một lần. Đó chính là ngày 7 tháng 7 âm lịch. Vào đêm này hàng năm, một đàn quạ lớn sẽ bay lên trời và tạo nên một chiếc cầu bằng thân thể chúng, bắc ngang qua dòng sông thần, gọi là cầu Ô Thước.

Chỉ duy nhất vào đêm ấy Ngưu Lang và Chức Nữ mới có thể băng qua Dải Ngân Hà để đến bên nhau. Tiết Thất tịch diễn ra vào giữa mùa hè khi tiết trời ấm áp và cây cỏ xanh ngát. Nếu lắng tai nghe, bạn có thể nghe được âm thanh như lời thì thầm của Ngưu Lang và Chức Nữ đang thổ lộ tình yêu sau thời gian dài xa cách.

Ngày lễ tình yêu của người phương Đông

Tiết Thất Tịch là dịp bày tỏ tình yêu chân thành. Do đó nó thường được xem là ngày lễ tình yêu của người Trung Hoa và một số nước châu Á khác. Thật đáng buồn là ngoại trừ một số khu vực miền quê, những tập tục truyền thống trong ngày này đã dần vắng bóng và biệt tích ở Trung Hoa.

Ngày nay, thế hệ trẻ Trung Hoa thường không biết mấy đến nguồn gốc của tiết Thất Tịch và những tập tục trong ngày lễ tình yêu của Trung Hoa, họ thường quen tán dương ngày lễ Valentine, ngày 14/2, của người phương Tây.

Ý nghĩa ngày lễ Thất Tịch ở Việt Nam

Ở Việt Nam, ngày lễ Thất Tịch hay còn gọi là ngày “ông Ngâu bà Ngâu”. Các đôi lứa yêu nhau thường đến chùa, làm lễ và cầu mong cho tình duyên bền vững, son sắt.

Trong ngày lễ Thất Tịch, các đôi lứa yêu nhau thường cùng nhau ngắm sao Ngưu Lang - Chức Nữ và thề hẹn 

Vào ngày này, trời thường mưa, người ta gọi là mưa ngâu. Mưa là nước mắt của Ngưu Lang và Chức Nữ khi gặp nhau. Dân gian có câu: "Đồn rằng tháng 7 mưa ngâu, Con trời lấy chú chăn trâu cũng phiền".

Trong ngày lễ, các đôi lứa yêu nhau thường đến chùa, làm lễ và cầu mong cho tình duyên son sắt. Nếu trời không mưa, các đôi thường cùng nhau ngắm sao Ngưu Lang - Chức Nữ và thề hẹn. Đêm Thất tịch, chòm sao Chức Nữ sẽ sáng vô cùng. Người ta tin rằng hai người yêu nhau nếu cùng ngắm sao Ngưu Lang - Chức Nữ trong đêm mùng 7 tháng 7 thì sẽ mãi mãi bên nhau.

Ở Hà Nội, vào ngày này, giới trẻ thường đổ về Chùa Hà để cầu duyên, cầu tình. Sở dĩ chùa là địa điểm cầu tình là bởi sự linh ứng truyền tụng trong dân gian nhưng đồng thời cũng gắn với truyền thuyết thời Lý.

Vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072) lúc 42 tuổi vẫn chưa có con nên đã cầu tự ở một ngôi chùa mà sinh ra Thái tử Càn Đức, do đó ngôi chùa này gọi là chùa Thánh Chúa để kỷ niệm sự kiện này.

Theo moitruongvadothi.vn